Nguyễn Trãi 阮廌 * thơ chữ Hán
hv-ebook "Thơ chữ Hán" Nguyễn Trãi 阮廌 @ Hán Việt Từ Điển Trích Dẫn 漢越辭典摘引 online, chú thích: Đặng Thế Kiệt
Tuesday, 15 September 2015
008 Đề Vân Oa 題雲窩
半簾花影滿床書
庭外蕭蕭水竹居
盡日雲窩無箇事
黑甜一枕半窗虛
Bán liêm hoa ảnh mãn sàng thư
Đình ngoại tiêu tiêu thủy trúc (2) cư
Tận nhật Vân Oa vô cá sự
Hắc điềm (3) nhất chẩm bán song hư
Chú thích:
(1) Vân Oa 雲窩: Theo sách Vũ Di Sơn chí 武夷山志, Vân Oa từ xưa là nơi văn nhân mặc khách đến ở để di dưỡng tâm thần; cũng là chỗ nhà quan lui về ẩn dật. Ở đây, có lẽ là nhà ở ẩn của Nguyễn Trãi.
(2) thủy trúc 水竹: loại cây có thân lá xanh và dài như tre, thích hợp với chỗ có nước.
(3) hắc điềm 黑甜: ngủ say, ngủ ngon. Tô Thức 蘇軾: Tam bôi nhuyễn bão hậu, Nhất chẩm hắc điềm dư 三杯軟飽後, 一枕黑甜餘 (Phát Quảng Châu 發廣州) Ba chén rượu uống xong, Một gối giấc ngủ nồng.
Dịch nghĩa:
Đề Vân Oa
Bóng hoa trên rèm che nửa, sách đầy giường
Ngoài sân gió thổi xào xạc vào đám thủy trúc
Suốt ngày ở Vân Oa không có việc gì cả
Một gối ngủ say bên nửa cửa sổ trống không
Dịch thơ:
Đề Am Mây
Nửa rèm hoa rọi, sách xem thừa
Xào xạc ngoài sân gió trúc đưa
Suốt buổi Am Mây không bận bịu
Giấc say một gối nửa song hờ
(Đặng Thế Kiệt dịch)
Monday, 14 September 2015
007 Mộng sơn trung 夢山中
清虛洞裡竹千竿
飛瀑霏霏落鏡寒
昨夜月明天似水
夢騎黃鶴上仙壇
Thanh Hư động (1) lí trúc thiên can
Phi bộc phi phi lạc kính hàn
Tạc dạ nguyệt minh thiên tự thủy
Mộng ki hoàng hạc (2) thướng tiên đàn
Chú thích:
(1) Thanh Hư động 清虛洞: Trần Nguyên Đán 陳元旦 (1325 - 1390), ông ngoại của Nguyễn Trãi, tâu xin vua Trần cho một khu đất hoang trên núi Côn Sơn để tạo một cảnh trí cho mình về ở ẩn, gọi là động Thanh Hư. Sau thành một thắng cảnh trong núi Côn Sơn, ở xã Chi Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
(2) hoàng hạc 黃鶴: tương truyền Phí Văn Huy 費文褘 lên tiên, thường cưỡi hạc vàng đến nghỉ ở một ngôi lầu ở huyện Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc (Trung Quốc); lầu này vì thế có tên là Hoàng hạc lâu 黃鶴樓.
Dịch nghĩa:
Mộng trong núi
Trong động Thanh Hư hàng nghìn cành trúc
Thác nước bay phơi phới như tấm gương lạnh rơi xuống
Đêm qua trăng sáng, trời trong như nước
Mơ thấy cỡi hạc vàng bay lên đàn tiên
Dịch thơ:
Mộng trong núi
Thanh Hư trong động trúc nghìn cây
Phơi phới thác tuôn kính lạnh bày
Trăng sáng đêm qua, trời tựa nước
Mộng lên tiên cưỡi hạc vàng bay
(Nguyễn Khuê dịch)
006 Đề Bá Nha cổ cầm đồ 題伯牙鼓琴圖
![]() |
image: (*) Internet |
鍾期不作鑄金難
獨抱瑤琴對月彈
靜夜碧霄涼似水
一聲鶴唳九皋寒
Chung Kì bất tác chú kim nan
Độc bão dao cầm đối nguyệt đàn
Tĩnh dạ bích tiêu lương tự thủy
Nhất thanh hạc lệ cửu cao hàn (2)
Chú thích:
(1) Bá Nha 伯牙: Bá Nha 伯牙 (thời Xuân Thu) giỏi gảy đàn, làm bạn với Chung Tử Kì 鍾子期. Một hôm Bá Nha gảy đàn cho Chung Tử Kì nghe. Khi Bá Nha chí ở non cao, Tử Kì bảo: Hay lắm! Chí cao vòi vọi như núi Thái Sơn. Khi Bá Nha nghĩ tới nước chảy, Tử Kì bảo: Hay lắm! Cuồn cuộn như dòng sông. Đến khi Tử Kì chết, Bá Nha nói trên đời không còn ai tri âm, bèn dứt dây đàn và bỏ không gảy đàn nữa (cf. Lã Thị Xuân Thu 呂氏春秋, Bổn vị 本味).
(2) Nhất thanh hạc lệ cửu cao hàn 一聲鶴唳九皋寒: Thi Kinh
詩經, Tiểu Nhã 小雅 (Hạc minh 鶴鳴): Hạc minh vu cửu cao, Thanh văn vu thiên 鶴鳴于九皋, 聲聞于天 Chim hạc kêu ở xa ngoài chín đầm, tiếng nghe khắp đồng nội.
Dịch nghĩa:
Đề tranh Bá Nha gảy đàn
Không làm được Chung Kì vì đúc tượng vàng Chung Kì khó
Một mình ôm đàn ngọc gảy trước vừng trăng
Đêm vắng lặng bầu trời biếc mát như nước
Một tiếng hạc kêu nơi chín chằm lạnh
Dịch thơ:
Đề tranh Bá Nha gảy đàn
Chung Kì khó đúc được khuôn vàng
Đàn ngọc ngồi ôm gảy dưới trăng
Đêm vắng trời xanh biếc tựa nước
Hạc kêu một tiếng lạnh đồng hoang
(Đặng Thế Kiệt dịch)
Tham khảo:
http://www.baike.com/wiki/《伯牙碎琴》
http://hk.chiculture.net/20508/html/b28/20508b28.html
image: (*) http://www.shaodaren.com/news/tuku/546L5oyv6bmPIOS8r%2BeJmem8k%2BeQtA%3D%3D.html
Sunday, 13 September 2015
005 Dục Thúy sơn 浴翠山
海口有僊山
年前屢往還
蓮花浮水上
僊境墜人間
塔影簪青玉
波光鏡翠鬟
有懷張少保
碑刻蘚花斑
Hải khẩu hữu tiên san
Niên tiền lũ vãng hoàn
Liên hoa phù thủy thượng
Tiên cảnh trụy nhân gian
Tháp ảnh trâm thanh ngọc
Ba quang kính thúy hoàn
Hữu hoài Trương Thiếu Bảo (2)
Bi khắc tiển hoa ban
Chú thích:
(1) Dục Thúy sơn 浴翠山: núi ở Chính Đại, phủ An Khánh, tỉnh Ninh Bình. Xưa có tên là núi Non Nước. Trương Hán Siêu đổi tên là núi Dục Thúy.
(2) Trương Thiếu Bảo 張少保: tức Trương Hán Siêu (? - 1354), người làng Phúc Am, phủ An Khánh, tỉnh Ninh Bình, làm quan Thiếu Bảo đời Trần, có đề thơ khắc vào vách đá ở núi Dục Thúy.
Dịch nghĩa:
Núi Dục Thúy
Cửa biển có núi tiên
Năm trước thường đi về
Hoa sen nổi trên nước
Cảnh tiên sa xuống cõi người ta
Bóng tháp cài trâm ngọc xanh
Ánh sáng sóng nước soi gương búi tóc biếc
Lòng nhớ quan Thiếu Bảo họ Trương
Tấm bia khắc nay đã mọc hoa rêu lốm đốm
Dịch thơ:
Núi Dục Thúy
Cửa biển có núi tiên
Đi về trước đã quen
Bồng Lai sa cõi tục
Mặt nước nổi hoa sen
Bóng tháp cài trâm ngọc
Sóng nước soi tóc huyền
Lòng nhớ Trương Thiếu Bảo
Bia khắc đốm rêu chen
(Đặng Thế Kiệt dịch)
004 Tặng hữu nhân 贈友人
貧病予憐汝
疏狂汝似予
同爲千里客
俱讀數行書
濩落知何用
棲遲諒有餘
他年淽溪約
短笠荷春鋤
Bần bệnh dư lân nhữ
Sơ cuồng nhữ tự dư
Đồng vi thiên lí khách
Câu độc sổ hàng thư
Hoạch lạc (1) tri hà dụng
Tê trì (2) lượng hữu dư
Tha niên Nhị Khê (3) ước
Đoản lạp hạ xuân sừ
Chú thích
(1) hoạch lạc 濩落: cũng viết là 瓠落, nghĩa là trống rỗng, vô dụng. Trang Tử 莊子: Phẫu chi dĩ vi biều, tắc hoạch lạc vô sở dung 剖之以為瓢, 則瓠落無所容 (Tiêu dao du 逍遙遊) Bổ nó ra làm cái bầu thì trống rỗng không đựng được vật gì.
(2) tê trì 棲遲: Thi Kinh 詩經: Hoành môn chi hạ, Khả dĩ tê trì 衡門之下, 可以棲遲 (Trần phong 陳風, Hoành môn 衡門) Dưới cửa gỗ bắc ngang (thô sơ bỉ lậu), Có thể an nhàn nghỉ ngơi.
(3) Nhị Khê 淽溪: quê hương của Nguyễn Trãi.
Dịch nghĩa:
Tặng bạn
Tôi thương anh nghèo và đau yếu
Ngông cuồng anh giống tôi
Cùng làm khách xa nhà nghìn dặm
Cũng biết đọc mấy hàng chữ
Rỗng tuếch (như hai ta) thì biết dùng làm gì
Nhưng nghỉ ở không thì chắc hẳn có thừa
Năm nào hẹn về Nhị Khê
Đội nón lá, vác cuốc đi làm vụ xuân
Dịch thơ:
Tặng bạn
Thương anh nghèo lại bệnh
Ngông cuồng anh cũng như
Đều xa quê nghìn dặm
Cùng biết đọc thi thư
Rỗng tuếch hoàn vô dụng
Ở không hẳn có thừa
Nhị Khê về hẹn ước
Nón tơi, cuốc vụ mùa
(Đặng Thế Kiệt dịch)
Saturday, 12 September 2015
002 Giang hành 江行
西津初艤棹
風景便江湖
雨過山容瘦
天長雁影孤
滄浪何處是
漁釣好爲徒
回首東華地
塵埃覺已無
Tây tân sơ nghĩ trạo
Phong cảnh tiện giang hồ
Vũ quá sơn dung sấu
Thiên trường nhạn ảnh cô
Thương Lang hà xứ thị
Ngư điếu hảo vi đồ
Hồi thủ Đông Hoa địa
Trần ai giác dĩ vô
Chú thích
(1) Thương Lang 滄浪: Khuất Nguyên 屈原: Thương Lang chi thủy thanh hề, khả dĩ trạc ngã anh, Thương Lang chi thủy trọc hề, khả dĩ trạc ngã túc 滄浪之水清兮, 可以濯我纓, 滄浪之水濁兮, 可以濯我足 (Ngư phủ 漁父) Nước sông Thương Lang trong hề, có thể giặt dải mũ của ta, Nước sông Thương Lang đục hề, có thể rửa chân ta.
(2) ngư điếu 漁釣: Khuất Nguyên khi bị đi đày, đi dạo ở bờ sông, gặp một ông chài, hai người đối đáp với nhau về lẽ trong đục, tỉnh say ở đời. Khuất Nguyên 屈原: Thế nhân giai trọc, hà bất cốt kì nê nhi dương kì ba; chúng nhân giai túy, hà bất bô kì tao nhi xuyết kì si 世人皆濁, 何不淈其泥而揚其波; 眾人皆醉, 何不餔其糟而歠其釃 (Ngư phủ 漁父) Người đời đều đục, sao ông không khuấy bùn khua sóng; mọi người đều say, sao ông không ăn bã, uống cặn.
(3) Đông Hoa 東華: chỉ cửa đông kinh thành (Trung Quốc), nội các đặt ở cửa Đông Hoa. Ở đây chỉ miếu đường, nơi Nguyễn Trãi từng làm việc.
Dịch nghĩa:
Đi thuyền trên sông
Bến tây vừa ghé mái chèo
Phong cảnh đã sông hồ
Mưa qua dáng núi gầy
Trời rộng bóng nhạn lẻ loi
Sông Thương Lang ở nơi đâu
Mà tìm đến ông chài làm bạn nhỉ
Quay đầu nhìn lại cửa Đông Hoa Cát bụi đã thấy là không cả
Dịch thơ:
Đi thuyền trên sông
Bến tây thuyền mới ghé
Phong cảnh đã sông hồ
Mưa qua núi gầy gõ
Trời rộng bóng nhạn cô
Sông Thương Lang đâu đó
Ông chài làm bạn cho
Kinh thành quay nhìn lại
Cát bụi hoàn hư vô
(Đặng Thế Kiệt dịch)
001 Du sơn tự 遊山寺
短棹繫斜陽
匆匆謁上方
雲歸禪榻冷
花落澗流香
日暮猿聲急
山空竹影長
箇中真有意
欲語忽還忘
Đoản trạo hệ tà dương
Thông thông yết thượng phương
Vân quy thiền tháp lãnh
Hoa lạc giản lưu hương
Nhật mộ viên thanh cấp
Sơn không trúc ảnh trường
Cá trung chân hữu ý
Dục ngữ hốt hoàn vong
Dịch nghĩa:
Đi chơi chùa trên núi
Chèo ngắn buộc bóng chiều tà
Vội vội lên thăm chùa trên núi
Mây về giường thiền lạnh
Hoa rụng suối trôi hương
Chiều tối tiếng vượn kêu gấp
Núi vắng bóng trúc dài
Trong đây thật có ý
Muốn nói bỗng quên lời
Dịch thơ:
Đi chơi chùa trên núi
Chèo buộc ánh chiều rơi
Chùa núi vội lên chơi
Mây về giường thiền lạnh
Hoa rụng suối hương trôi
Ngày muộn tiếng vượn gấp
Núi không bóng trúc dài
Trong đây hẳn có ý
Muốn nói bỗng quên lời
(Đặng Thế Kiệt dịch)
Subscribe to:
Posts (Atom)